nguyenvanphu
Thành Viên
- Điểm
- 464
Tiếng Nhật là một ngôn ngữ tượng hình (khác biệt với tiếng Việt vốn thuộc vào loại ngôn ngữ đơn lập phân tích cao), nổi bật với một hệ thống các nghi thức nghiêm ngặt và rành mạch, đặc biệt là hệ thống kính ngữ phức tạp thể hiện bản chất thứ bậc của xã hội Nhật Bản, với những dạng biến đổi động từ và sự kết hợp một số từ vựng để chỉ mối quan hệ giữa người nói, người nghe và người được nói đến trong cuộc hội thoại. Kho ngữ âm của tiếng Nhật khá nhỏ, với một hệ thống ngữ điệu rõ rệt theo từ. Tiếng Nhật cổ nhất được biết đến chủ yếu dựa vào trạng thái của nó vào thế kỷ thứ VIII, khi ba tác phẩm chủ yếu của tiếng Nhật cổ được dịch (hai bộ sử Cổ sự ký (古事記 (Cổ sự ký)?), Nhật Bản thư kỷ (日本書紀 (Nhật Bản thư kỷ)?), và thi tập Vạn diệp tập (万葉集 (Vạn diệp tập)?); nhưng một số lượng tài liệu ít hơn, chủ yếu là chữ khắc, còn cổ hơn. Những chứng thực về tiếng Nhật cổ nhất có thể được tìm thấy trong một số tư liệu thành văn của Trung Quốc từ năm 252.
Tiếng Nhật cũng nổi bật ở việc được viết phổ biến trong sự phối hợp của ba kiểu chữ: văn tự ngữ tố kanji (漢字 (Hán tự)? "chữ Hán" kiểu Nhật Bản, có một số khác biệt so với chữ Hán trong tiếng Trung) và hai kiểu chữ tượng thanh (ghi âm tiết) - kana (仮名 (giả danh)?) gồm kiểu chữ nét mềm hiragana (平仮名 (bình giả danh)?) và kiểu chữ nét cứng katakana (片仮名 (phiến giả danh)?). Kanji dùng để viết các từ Hán (mượn của tiếng Trung Quốc) hoặc các từ người Nhật dùng chữ Hán để thể hiện rõ nghĩa. Hiragana dùng để ghi các từ gốc Nhật và các thành tố ngữ pháp như trợ từ, trợ động từ, đuôi động từ, tính từ... Katakana dùng để phiên âm từ vựng nước ngoài (kể cả tiếng Trung, tuy có chữ Hán nhưng Katakana vẫn được dùng để phiên âm tiếng Quan Thoại, ví dụ như Thượng Hải 上海, tiếng Nhật dùng シャンハイ (Shanhai) để phiên âm từ bính âm là "Shànghăi", ít khi dùng từ Hán-Nhật là "じょうかい" Joukai), và có lúc thay Hiragana để nhấn mạnh từ gốc Nhật (ví dụ như "Kimi" (bạn/cậu), có lúc dùng キミ để nhấn mạnh cho 君, giống như trong tiếng Việt nhấn mạnh bằng cách cho vào "ngoặc kép" hay VIẾT IN HOA). Bảng ký tự Latinh Rōmaji cũng được dùng trong tiếng Nhật hiện đại, đặc biệt là ở tên và biểu trưng của các công ty, quảng cáo, nhãn hiệu hàng hoá, khi nhập tiếng Nhật vào máy vi tính và được dạy ở cấp tiểu học nhưng chỉ có tính thí điểm. Số Ả Rập theo kiểu phương Tây được dùng để ghi số, nhưng cách viết chữ số Hán theo Kanji như "一二三" (nhất nhị tam) cũng rất phổ biến.
Từ vựng Nhật cũng chịu ảnh hưởng lớn bởi những từ mượn từ các ngôn ngữ khác. Một số lượng khổng lồ các từ vựng mượn từ tiếng Hán, hoặc được tạo ra theo kiểu của tiếng Hán, tồn tại qua giai đoạn ít nhất 1.500 năm. Từ cuối thế kỷ XIX, tiếng Nhật đã mượn một lượng từ vựng đáng kể từ ngữ hệ Ấn-Âu, chủ yếu là tiếng Anh, và phát sinh ra các từ vựng được gọi là wasei eigo (和製英語 (Hoà chế Anh ngữ) Nihongo?, "tiếng Anh do Nhật chế"), ví dụ như rimokon (リモコン? "chiếc điều khiển từ xa"), chế từ cụm từ tiếng Anh "remote control" mà người Nhật phiên âm là rimōto kontorōru (リモートコントロール?). Do mối quan hệ thương mại đặc biệt giữa Nhật Bản và Hà Lan vào thế kỷ thứ XVII, tiếng Hà Lan cũng có ảnh hưởng, với những từ như bīru (từ bier; "bia") và kōhī (từ koffie; "cà phê").
Tiếng Nhật cũng nổi bật ở việc được viết phổ biến trong sự phối hợp của ba kiểu chữ: văn tự ngữ tố kanji (漢字 (Hán tự)? "chữ Hán" kiểu Nhật Bản, có một số khác biệt so với chữ Hán trong tiếng Trung) và hai kiểu chữ tượng thanh (ghi âm tiết) - kana (仮名 (giả danh)?) gồm kiểu chữ nét mềm hiragana (平仮名 (bình giả danh)?) và kiểu chữ nét cứng katakana (片仮名 (phiến giả danh)?). Kanji dùng để viết các từ Hán (mượn của tiếng Trung Quốc) hoặc các từ người Nhật dùng chữ Hán để thể hiện rõ nghĩa. Hiragana dùng để ghi các từ gốc Nhật và các thành tố ngữ pháp như trợ từ, trợ động từ, đuôi động từ, tính từ... Katakana dùng để phiên âm từ vựng nước ngoài (kể cả tiếng Trung, tuy có chữ Hán nhưng Katakana vẫn được dùng để phiên âm tiếng Quan Thoại, ví dụ như Thượng Hải 上海, tiếng Nhật dùng シャンハイ (Shanhai) để phiên âm từ bính âm là "Shànghăi", ít khi dùng từ Hán-Nhật là "じょうかい" Joukai), và có lúc thay Hiragana để nhấn mạnh từ gốc Nhật (ví dụ như "Kimi" (bạn/cậu), có lúc dùng キミ để nhấn mạnh cho 君, giống như trong tiếng Việt nhấn mạnh bằng cách cho vào "ngoặc kép" hay VIẾT IN HOA). Bảng ký tự Latinh Rōmaji cũng được dùng trong tiếng Nhật hiện đại, đặc biệt là ở tên và biểu trưng của các công ty, quảng cáo, nhãn hiệu hàng hoá, khi nhập tiếng Nhật vào máy vi tính và được dạy ở cấp tiểu học nhưng chỉ có tính thí điểm. Số Ả Rập theo kiểu phương Tây được dùng để ghi số, nhưng cách viết chữ số Hán theo Kanji như "一二三" (nhất nhị tam) cũng rất phổ biến.
Từ vựng Nhật cũng chịu ảnh hưởng lớn bởi những từ mượn từ các ngôn ngữ khác. Một số lượng khổng lồ các từ vựng mượn từ tiếng Hán, hoặc được tạo ra theo kiểu của tiếng Hán, tồn tại qua giai đoạn ít nhất 1.500 năm. Từ cuối thế kỷ XIX, tiếng Nhật đã mượn một lượng từ vựng đáng kể từ ngữ hệ Ấn-Âu, chủ yếu là tiếng Anh, và phát sinh ra các từ vựng được gọi là wasei eigo (和製英語 (Hoà chế Anh ngữ) Nihongo?, "tiếng Anh do Nhật chế"), ví dụ như rimokon (リモコン? "chiếc điều khiển từ xa"), chế từ cụm từ tiếng Anh "remote control" mà người Nhật phiên âm là rimōto kontorōru (リモートコントロール?). Do mối quan hệ thương mại đặc biệt giữa Nhật Bản và Hà Lan vào thế kỷ thứ XVII, tiếng Hà Lan cũng có ảnh hưởng, với những từ như bīru (từ bier; "bia") và kōhī (từ koffie; "cà phê").