Chia Sẻ Giá trị nghệ thuật trong Truyện Kiều


Chuyên đề: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
TRONG TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
I. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA:
- Giáo viên cung cấp cho học sinh những kiến thức về giá trị nghệ thuật trong tác phẩm Truyện Kiều, những kiến thức mà trong chương trình nội khoá, các em chưa được học một cách đầy đủ, trọn ven.
- Qua chuyên đề, các em sẽ hiểu sâu sắc hơn về giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều. Điều này sẽ giúp các em hoàn thành tốt hơn một số đề văn về tác phẩm: Nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật qua các trích đoạn Truyện Kiều đã học và đọc thêm; Bình luận, đánh giá khi phân tích một số nhân vật hoặc trích đoạn Truyện Kiều …
- Bố cục chuyên đề:
1. Nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật
a. Miêu tả qua ngoại hình nhân vật.
b. Miêu tả qua ngôn ngữ của nhân vật (ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại)
c. Miêu tả qua cử chỉ, hành động của nhân vật
d. Miêu tả gián tiếp qua tiếng nói của thiên nhiên
2. Một số biện pháp nghệ thuật khác:
a. Ngôn ngữ trong Truyện Kiều
b. Một số biện pháp tu từ.

II. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ:
1. Nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật
Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khắc hoạ tài tình các nhân vật, khiến mỗi nhân vật để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đậm nét không thể quên, không thể trộn lẫn. Mỗi nhân vật hiện lên với một chân dung khác nhau, thậm chí, mỗi nhân vật bước vào cuộc sống, trở thành điển hình cho một loại người, một tầng lớp người nào đó. Ví như người ta thường nói những người con gái "đẹp như Thúy Kiều''; gọi những chủ chứa là "Tú Bà'', gọi những kẻ lừa gạt, tráo trở trong tình yêu là "Sở Khanh'' hoặc gọi những người phụ nữ ghen tuông quá thái là "Hoạn Thư'', những người đàn ông chải chuốt, trai lơ là "họ Mã …
Nguyễn Du xây dựng chân dung, tính cách nhân vật qua ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của nhân vật và qua tiếng nói của thiên nhiên.
a. Nhân vật được miêu tả qua ngoại hình: Nguyễn Du chịu ảnh hưởng quan điểm thẩm mĩ của dân gian: chính đẹp, tà xấu
- Nhân vật chính diện: Thúy Vân, Thúy kiều, Kim Trọng, Từ Hải…
Với các nhân vật này, Nguyễn Du miêu tả ngoại hình chủ yếu bằng bút pháp miêu tả ước lệ (khuôn mẫu đã định sẵn). Tuy vậy, mỗi người đều có một vẻ đẹp riêng. Ví dụ:
+ Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
+ Thúy Kiều:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
+ Từ Hải là một anh hùng phi thường nên có ngoại hình khác thường:
Râu hùm, hàm én, mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
+ Kim Trọng - một văn nhân tài tử:
Trông chừng thấy một văn nhân
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng
Đề huề lưng túi gió trăng,
Theo sau lưng một vài thằng con con.
Vó in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
- Nhân vật phản diện: Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến…
Với các nhân vật này, tác giả miêu tả bằng bút pháp tả thực. Có lẽ, với tác giả, những con người này không xứng với bút pháp ước lệ trang trọng. Nhà thơ như trực tiếp quan sát thật kĩ lưỡng để tả. Ví dụ:
+ Mã Giám Sinh:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
+ Hồ Tôn Hiến:
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình
+ Sở Khanh:
Bạc tình nổi tiếng lầu xanh
Một tay chôn biết mấy cành phù dung
+ Tú Bà:
Nhác trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì to béo đẫy đà làm sao

b. Nhân vật được miêu tả qua lời nói (ngộn ngữ)
* Ngôn ngữ đối thoại:
Có thể nói, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ rất chính xác, tài tình khi "gắn'' vào miệng mỗi nhân vật trong mỗi văn cảnh khác nhau những lời nói tưởng như không có thứ ngôn ngữ nào thay thế được. Khi thì ngôn ngữ trang trọng, kiểu cách, lúc thì ngôn ngữ thuần Việt nôm na, gần gũi với quần chúng. Qua ngôn ngữ đó, tính cách từng nhân vật được bộc lộ rõ. Ví dụ:
- Mã Giám Sinh: Xuất hiện với lời nói thoáng nghe có vẻ hào hoa, học thức, lễ nghĩa:
Rằng mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường
nhưng nghe kĩ thì đó lại là thứ ngôn ngữ của một kẻ giả dối, lừa đảo. Dù hắn có cố tình che đậy mục đích mua Kiều về lầu xanh nhưng bản chất con buôn và mục đích con buôn của hắn vẫn cứ lòi ra qua từ "mua'' ( "mua ngọc đến Lam Kiều'')
- Từ Hải là một đấng anh hùng cái thế dũng mãnh vô song nên lời nói thẳng thắn, đàng hoàng, không hề lả lơi dù trong hoàn cảnh ở chốn lầu xanh:
Khen cho con mắt tinh đời
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già
Một lời đã biết đến ta
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau
- Hồ Tôn Hiến: Là một tên quan đầu triều nhưng bản chất dâm ô, đểu cáng, lừa lọc, tráo trở nên lời nói không đi đôi với việc làm. Những lời nói tưởng như quan tâm săn sóc đến Kiều nhưng thực ra mục đích chỉ là lừa nàng mà thôi.
- Sở Khanh: là một kẻ chuyên lừa lọc những người con gái nhẹ dạ cả tin. Hắn nhận tiền của Tú Bà để lừa Kiều, đưa nàng vào tròng, buộc nàng phải chấp nhận tiếp khách làng chơi. Bởi vậy, hắn nói với Kiều bằng giọng rất hùng hồn:
Nàng đà biết đến ta chăng
Bể trầm luân lấp cho đầy mới thôi
Hắn tự xưng với Kiều là anh hùng đến cứu Kiều nhưng đó chỉ là lời hứa huênh hoang rỗng tuếch, giả dối.
- Tú Bà một chủ chứa nên lời nói của mụ khi thì nanh nọc xỉ vả Kiều:
Con kia đã bán cho ta
Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây
Lão kia có giở bài bây
Chẳng văng vào mặt sao mày lại nghe.
Cớ sao chịu tốt một bề
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?
Lúc lại tỉ tê truyền dạy ngón nghề của mình:
Này con, thuộc lấy tam tòng
Vành ngoài bẩy chữ, vành trong tám nghề.
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đã, cho mê mẩn đời
*Ngôn ngữ độc thoại:
Đó là tiếng lòng của nhân vật được cất lên một cách trung thực, là sự rung cảm của trái tim trước thiên nhiên, xã hội và cuộc sống. Nguyễn Du đã chú trọng miêu tả tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ độc thoại. Tác giả để cho nhân vật trực tiếp bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của mình. Ví dụ:
- Sau khi đi tảo mộ về, Thúy Kiều luôn trăn trở:
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không
Hay:
Người mà đến thế thì thôi
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi
Qua những suy nghĩ ấy, ta hiểu Kiều là một người con gái đa tình nhưng cũng rất đa sầu, đa cảm. Chỉ thoáng gặp nhưng trái tim nàng luôn vấn vương, nhớ nhung đến Kim Trọng, cũng như hình ảnh ngôi mộ Đạm Tiên cùng với số phận của nàng qua lời kể của Vương Quan luôn ám ảnh tâm trí nàng, khiến nàng xót xa thương cảm…
Như vậy, ta thấy ngòi bút của nhà thơ như len lỏi vào từng ngóc ngách trái tim nhân vật để lắng nghe, để nói hộ tiếng lòng của nhân vật
- Những câu thơ miêu tả nỗi nhớ của Thúy Kiều trong những ngày nàng sống ở lầu Ngưng Bích:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
………………………………
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn nàng, đó là người con gái thuỷ chung, hiếu thảo. Trong bất hạnh khổ đau, nàng như quên đi chính mình mà luôn quan tâm, lo lắng cho người thân…
- Khi buộc phải tiếp khách làng chơi, Kiều sống trong nỗi đau đớn, nhục nhã đến ê chề. Những câu thơ diễn tả tâm trạng, suy nghĩ của nàng:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Qua đó, ta cảm nhận được cảnh ngộ của nàng trong những ngày nàng sống ở lầu xanh và trân trọng tâm hồn trong trắng giầu lòng tự trọng của nàng.

c. Nhân vật được miêu tả qua cử chỉ, hành động
Trong tác phẩm, mỗi nhân vật xuất hiện với những cử chỉ, hành động khác nhau, những cử hành động như có lời nói nói nên bản chất của nhân vật. Ví dụ:
- Mã Giám Sinh:
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Chỉ một cử chỉ "ngồi tót'' thôi cũng đủ để hắn lộ nguyên hình bản chất của một kẻ thiếu văn hoá, thô lỗ, ỷ vào sức mạnh của đồng tiền để tự cho mình cái quyền ngồi trên ăn trốc.
- Sở Khanh:
Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào
Cái hành động "lẻn vào'' đầy mờ ám, vụng trộm của gã họ Sở khác hẳn với hành động đàng hoàng của Từ Hải ("Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi'')
- Hay Kim Trọng, một văn nhân tài tử hào hoa phong nhã:
Nẻo xa mới tỏ mặt người
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình

d. Nhân vật được miêu tả gián tiếp qua tiếng nói của thiên nhiên
Có thể nói, Nguyễn Du đã sử dụng một cách tài tình, khéo léo bút pháp này. Hầu như những bức tranh thiên nhiên trong tác phẩm đều là những bức tranh thiên nhiên biết nói, nói lên muôn nghìn những cung bậc tình cảm khác nhau của nhân vật. Rõ ràng, Nguyễn Du đã đưa tiếng nói của thiên nhiên vào tác phẩm, nhờ thiên nhiên nói hộ tâm trạng nhân vật. Ví dụ:
- Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Đây không chỉ là bức tranh cảnh, dù đó là bức tranh cảnh thiên nhiên đẹp mà bức đó là bức tranh tâm trạng, tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến, quyến luyến không muốn rời xa nhau của Thúy Kiều và Kim Trọng.
- Tám câu thơ cuối trong trích đoạn "Kiều ở lầu Ngưng Bích'':
Buồn trông cửa bể chiều hôm
………………….
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Hoàn toàn là bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều trong những ngày nàng sống ở lầu Ngưng Bích.
Tóm lại, một trong những thành công giúp Truyện Kiều của Nguyễn Du đạt đến đỉnh cao nghệ thuật chính là thành công về nghệ thuật khắc hoạ chân dung nhân vật. Nếu so sánh với "Chuyện người con gái Nam Xương'' hay các tác phẩm cùng thời khác, kể cả những tác phẩm được sáng tác sau đó như "Truyện Lục vân Tiên '' của Nguyễn Đình Chiểu, ta thấy nghệ thuật khắc hoạ chân dung nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiếu có bước tiến xa, đạt đến trình độ điêu luyện, tài hoa.

2. Một số bút pháp nghệ thuật khác:
a. Ngôn ngữ trong tác phẩm Truyện Kiều
Nguyễn Du đã kết hợp hài hoà giữa chất liệu thơ ca dân gian, ngôn ngữ quần chúng và ngôn ngữ bác học.
*Trước hết, trong tác phẩm có sự kết hợp hài hoà giữa ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân.
- Vốn ngôn ngữ bác học được Nguyễn Du sử dụng rất sáng tạo. Đó là những hình ảnh, những cách nói, những điển tích điển cố trong văn chương sách vở. Ví dụ:
Vẫn nghe thơm nức hương lân
Một nền Đồng tước khoá thân hai Kiều
Hay:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
- Vốn ngôn ngữ quần chúng dân gian: Có lẽ, những năm tháng từng trải nay đây mai đó của mình, Nguyễn Du đã học được rất nhiều cách nói của chúng nhân dân lao động, ông đã đưa cách nói của họ vào trong tác phẩm của mình một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo. Trong tác phẩm có dấu vết của trên 100 câu ca dao và rất nhiều câu tục ngữ, thành ngữ.
Ví dụ 1: Hình ảnh cánh bèo trong dân gian luôn là hình ảnh chỉ thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Ca dao có câu:
Lênh đênh nước chảy bèo trôi
Đến khi nước lụt, bèo ngồi trên sen
Trong Truyện Kiều:
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau
Ví dụ 2: Hạt mưa là hình ảnh chỉ thân phận người phụ nữ:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt rơi xuống giếng, hạt sa vũng lầy
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
Hạt mưa xá nghĩ phận hèn
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân
Ví dụ 3: Tục ngữ có câu: "Nhân vô thập toàn'', Truyện Kiều viết
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Ví dụ 4: Thành ngữ có câu: "Ai khảo mà xưng'', Truyện Kiều viết:
Nghĩ đà bưng bít miệng bình
Nào ai có khảo mà mình lại xưng
Hay hàng loạt các ví dụ khác:
- Ra tuồng mèo mả gà đồng
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào

- Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không đao

- Ở đây tai vách mạch rừng
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi

- Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa

….
Nhờ việc sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo ngôn ngữ bình dân nên Truyện Kiều đã chiếm được tình cảm của nhân dân lao động. Bởi họ như tìm thấy lời ăn tiếng nói cuả chính mình trong đó. Bởi vậy, có ý kiến đã cho rằng; "Trong tác phẩm truyện Kiều, Nguyễn Du đã đạt đến độ bậc thầy về ngôn ngữ, là người đã nâng ngôn ngữ văn học dân tộc của thời đại lên một đỉnh cao chói lọi''

b. Các biện pháp tu từ trong Truyện Kiều
Nguyễn Du đã sử dụng thành thạo, đa dạng các biện pháp tu từ: So sánh, ẩn dụ, thậm xưng, điệp ngữ …Ví dụ:
- Điệp ngữ "buồn trông'' trong tám câu thơ cuối (trích đoạn "Kiều ở lầu Ngưng Bích'') có giá trị biểu cảm lớn. Ta như thấy nỗi buồn của Kiều hiện lên mênh mông, chất chồng, đè nặng lên tâm hồn nàng và ngập tràn tất cả.
- Điệp từ "giật mình'' trong câu thơ 'Giật mình, mình lại thương mình xót xa''. Câu thơ có 8 chữ mà xuất hiện tới 3 từ "giật mình''. Điều đó có tác dụng nhấn mạnh nỗi cô đơn, lẻ loi, trống vắng của Kiều giữa đêm khuya khi cuộc vui đã tàn.
- Hàng loạt hình ảnh ẩn dụ
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mât thua nước tóc, tuyết nhường màu da
- Hoán dụ:
Một tay xây dựng cơ đồ
Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành
- Thậm xưng: Hoa ghen thua thắm, liễn hờn kém xanh


Tóm lại: Trong nền văn học dân tộc, Truyện Kiều của Nguyễn Du xuất hiện như một đoá hoa đẹp nhất, tiếp thu sáng tạo truyền thống văn học dân tộc và ngôn ngữ bình dị của quần chúng cũng như ngôn ngữ mĩ lệ của văn chương bác học. Tất cả cùng kết hợp với sự rung động và tài năng đặc biệt của nhà thơ để đưa tác phẩm trở thành một công trình tuyệt tác có một không hai trong nền văn học dân tộc.
Truyện Kiều đã đánh dấu bước trưởng thành lên tới đỉnh cao của thơ ca dân tộc và trở thành niềm tự hào của thơ ca dân tộc. Không yêu đất nước mình, không vì nghệ thuật, vì cuộc đời thì Nguyễn Du không thể có được thành công ấy. Tác phẩm là kết quả của cái tâm lớn lao, của tài năng nghệ thuật lớn lao. Trân trọng cái nhìn hiện thực sắc sảo đầy tình yêu thương bao la của nhà thơ bao nhiêu, ta lại càng trân trọng tài năng sáng tạo của ông bấy nhiêu.

Tài liệu tham khảo
 

Đính kèm

  • 6-Chuyen de Gia tri nghe thuat trong tac pham Truyen Kieu.doc
    72 KB · Lượt xem: 0

Định hướng - GAC

Diễn đàn GAC - Giáo Án Chuẩn, nơi các Giáo viên, Phhs có thể tìm kiếm và chia sẻ những tài liệu giáo dục, những câu chuyện nghề nghiệp. Và cùng nhau thảo luận các chủ đề nuôi dạy con trẻ, chăm sóc sức khỏe, kinh doanh, du lịch, cuộc sống, tình yêu, hạnh phúc gia đình,...
Shoutbox
Hãy đăng nhập để bắt đầu trò chuyện
  1. No shouts have been posted yet.
Nơi bạn có thể chia sẻ, hỏi đáp nhanh với tất cả mọi người

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Top