Tôi sinh ra ở Nhật Bản và cũng học tiểu học ở đây, nhưng đã sống ở nước ngoài trong nhiều năm. Giờ đây, khi nghe phụ huynh Mỹ bày tỏ lo lắng khi con sắp vào đại học, tôi nhận ra hệ thống giáo dục sớm ở Nhật Bản đã chuẩn bị cho con trai tôi kỹ lưỡng như thế nào cho cột mốc quan trọng này.
Là mẹ của một sinh viên năm nhất, tôi chia sẻ mối bận tâm với những phụ huynh đó, chẳng hạn liệu con trai có theo kịp việc học ở lớp hay có vào đội tuyển bóng đá hay không. Nhưng có rất nhiều điều tôi không cần phải lo lắng. Kết bạn, sống tự lập hay đứng lên từ thất bại là vài điều trong số đó.
Lý do là ở tiểu học, con trai tôi đã dành nhiều thời gian không kém thời gian học để trau dồi kỹ năng sống, gọi là seikatsuryoku. Xứ sở mặt trời mọc có cách tiếp cận toàn diện để giáo dục trẻ nhỏ, vừa cung cấp kiến thức vừa giúp trẻ trở thành thành viên có trách nhiệm trong xã hội. Bạn có thể liên tưởng đến việc những người hâm mộ bóng đá ở lại dọn sạch sân vận động sau khi cổ vũ một trận đấu World Cup.
Đây là những gì một trường tiểu học ở Tokyo đã chuẩn bị để con tôi đối mặt với những thách thức của đại học ở Mỹ.
1. Trở thành một phần của cộng đồng
Một trong những từ khóa tại trường của thằng bé là "rentai", có nghĩa là tình đoàn kết. Học sinh được xác định là thành viên của một tập thể, chẳng hạn khối, lớp hay nhóm làm bài tập.
"Aisatsu" là câu chào hỏi được dùng khi giới thiệu các mối quan hệ mới. Nhấn mạnh vào tinh thần đồng đội giúp trẻ học cách chấp nhận lẫn nhau, hòa nhập với các thành viên trong tập thể. Nhờ đó, thằng bé có thể làm quen với môi trường đại học một cách suôn sẻ.
2. Đi loanh quanh một thành phố mới
Mọi trẻ Nhật Bản đều tự đi học. Con trai tôi theo học một trường tư thục cách nhà 90 phút di chuyển. Năm 6 tuổi, nó đã bắt hai chuyến tàu và một chuyến xe buýt, tham gia giao thông ở ga tàu lớn bậc nhất thế giới.
Phụ huynh không đi cùng con sau ba tuần đầu tiên của lớp 1. Đôi khi, thằng bé ngủ thiếp đi và để lỡ điểm dừng, và đôi khi tàu bị hoãn. Mỗi lần như vậy trở thành một chuyến phiêu lưu, tạo cơ hội cho nó tìm nhân viên hướng dẫn hoặc thử dùng điện thoại công cộng. Do vậy, giờ thằng bé dễ dàng tìm đường quanh khu vực trường đại học và xa hơn thế.
3. Tổ chức và quản lý thời gian
Trẻ Nhật Bản theo dõi quá trình học tập của bản thân bằng cách chép lại danh sách bài tập về nhà trên bảng vào vở, ghi nhớ những việc ưu tiên trong đầu.
Học sinh cũng cần lưu ý những vật dụng cần mang đến trường. Rất nhiều đồ dùng học tập được đặt trên bàn ở nhà, bên cạnh sách giáo khoa và đồng phục thể dục. Mỗi tối, con trai tôi sẽ chọn những món đồ từ đây và cho vào cặp sách, chuẩn bị cho ngày hôm sau. Nếu quên thứ gì đó, giáo viên sẽ yêu cầu nó suy ngẫm về việc sự bất cẩn của cá nhân có thể gây bất tiện cho người khác. Kỹ năng này giúp trẻ lên kế hoạch tốt hơn trong tương lai.
4. Xử lý sự cố
Các trường học Nhật Bản thiết kế giai đoạn "nghiên cứu tích hợp" nhằm cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề của học sinh. Trường của con trai tôi tổ chức lớp trồng củ cải, cây bìm bìm hay cấy lúa. Học sinh phải ghé cửa hàng ở địa phương và tính toán ngân sách.
Lên lớp 6, các em được chọn một dự án riêng kéo dài cả năm. Con tôi nghiên cứu về Thế chiến thứ 2 và tôi phải đưa nó đến một khu căn cứ quân sự cũ để quan sát thực địa.
Vào đại học, những đứa trẻ được làm quen sớm với kỹ năng này sẽ tìm ra các giải pháp sáng tạo khi gặp khó khăn.
5. Dọn dẹp
Học sinh Nhật Bản tự dọn lớp học. Một trong những vật dụng đầu tiên tôi chuẩn bị cho con khi đi học là giẻ lau, tấm giẻ nhỏ có mũi khâu chạy theo đường chữ X để tạo độ bền, treo cạnh bàn học ở lớp để làm vệ sinh hàng ngày.
Khi quay lại trường sau kỳ nghỉ, trẻ mang theo găng tay để nhổ cỏ, mang sẵn khăn để lau mồ hôi từ trán. Do đó, giữ phòng ký túc xá gọn gàng không phải nhiệm vụ khó khăn với con trai tôi.
6. Ăn uống
Mọi đứa trẻ ở trường học Nhật Bản đều phải ăn hết những thứ được phục vụ trong bữa trưa, trừ khi bị dị ứng. Để thừa thức ăn bị xem là lãng phí và thiếu tôn trọng người nấu.
Con tôi học được cách nấu ăn tại trường, thái và hầm củ cải do mình tự trồng, thực hành gọt táo sao cho lớp vỏ thành một dải dài, không bị đứt đoạn. Năm lớp 6, nó có thể nấu một bữa ăn đủ món khi mặc chiếc tạp dề tự may ở lớp.
Kỹ năng này rất quan trọng khi vào đại học.
7. Xử lý xung đột
Khi bắt đầu vào lớp 1, con trai tôi từng chạy từ nơi này sang nơi khác, tìm chỗ trốn một nam sinh to xác hay bắt nạt bạn bè. Thằng bé cũng ẩu đả với một bạn nam khác, lăn lộn trên sàn lớp học.
Giáo viên không can thiệp trừ khi quan sát thấy sắp xảy ra chấn thương về thể chất hoặc tâm lý. Triết lý của trường học là để trẻ tự giải quyết các vấn đề của bản thân. Nhờ điều này, chúng có thể xử lý tranh chấp với bạn cùng phòng ở ký túc xá khi vào đại học.
8. Tính nhẫn nại
Ngày nay, rất ít đại học kiểm tra kỹ năng bơi lội của sinh viên. Nhưng nếu con tôi vào một trường yêu cầu kỹ năng này, nó đã được chuẩn bị kỹ.
Trường tiểu học của thằng bé ở Tokyo yêu cầu học sinh hoàn thành chặng bơi 1-2 km trước khi tốt nghiệp. Đó là kỳ tích đối với những đứa trẻ thành thị, bởi việc bơi ếch trong dòng nước có thể chứa nhiều sứa không hề đơn giản. Trẻ được rèn luyện tính kiên trì thông qua những thử thách như vậy.
9. Đứng lên từ thất bại
Không có điều nào ở trên dễ dàng đối với con trai tôi, trừ việc ăn thực phẩm đa dạng. Nó từng chịu nhiều nỗi thất vọng khi đến trường. Lúc mới đi học, nó bị chế nhạo vì là người nước ngoài (thằng bé được nhận nuôi từ Kazakhstan). Điểm kém bị dán lên tường, trong khi không có mảnh giấy nào khen ngợi nỗ lực.
Thằng bé học được rằng lựa chọn duy nhất là sống với những thiếu sót của mình hoặc nhắm đến mục tiêu cao hơn. Nó chấp nhận thực tế và có khả năng đứng lên từ những thất bại.
Khi đến Mỹ, bước vào môi trường đa dạng hơn với cộng đồng sinh viên đến từ khắp nơi trên thế giới, con trai tôi phải đối mặt với nhiều thử thách khó lường. Tuy nhiên, nhờ vào những kỹ năng đã học ở trường tiểu học Nhật Bản, nó sẵn sàng đón nhận mọi thứ.
Tác giả: Thùy Linh
Là mẹ của một sinh viên năm nhất, tôi chia sẻ mối bận tâm với những phụ huynh đó, chẳng hạn liệu con trai có theo kịp việc học ở lớp hay có vào đội tuyển bóng đá hay không. Nhưng có rất nhiều điều tôi không cần phải lo lắng. Kết bạn, sống tự lập hay đứng lên từ thất bại là vài điều trong số đó.
Lý do là ở tiểu học, con trai tôi đã dành nhiều thời gian không kém thời gian học để trau dồi kỹ năng sống, gọi là seikatsuryoku. Xứ sở mặt trời mọc có cách tiếp cận toàn diện để giáo dục trẻ nhỏ, vừa cung cấp kiến thức vừa giúp trẻ trở thành thành viên có trách nhiệm trong xã hội. Bạn có thể liên tưởng đến việc những người hâm mộ bóng đá ở lại dọn sạch sân vận động sau khi cổ vũ một trận đấu World Cup.
Đây là những gì một trường tiểu học ở Tokyo đã chuẩn bị để con tôi đối mặt với những thách thức của đại học ở Mỹ.
1. Trở thành một phần của cộng đồng
Một trong những từ khóa tại trường của thằng bé là "rentai", có nghĩa là tình đoàn kết. Học sinh được xác định là thành viên của một tập thể, chẳng hạn khối, lớp hay nhóm làm bài tập.
"Aisatsu" là câu chào hỏi được dùng khi giới thiệu các mối quan hệ mới. Nhấn mạnh vào tinh thần đồng đội giúp trẻ học cách chấp nhận lẫn nhau, hòa nhập với các thành viên trong tập thể. Nhờ đó, thằng bé có thể làm quen với môi trường đại học một cách suôn sẻ.
2. Đi loanh quanh một thành phố mới
Mọi trẻ Nhật Bản đều tự đi học. Con trai tôi theo học một trường tư thục cách nhà 90 phút di chuyển. Năm 6 tuổi, nó đã bắt hai chuyến tàu và một chuyến xe buýt, tham gia giao thông ở ga tàu lớn bậc nhất thế giới.
Phụ huynh không đi cùng con sau ba tuần đầu tiên của lớp 1. Đôi khi, thằng bé ngủ thiếp đi và để lỡ điểm dừng, và đôi khi tàu bị hoãn. Mỗi lần như vậy trở thành một chuyến phiêu lưu, tạo cơ hội cho nó tìm nhân viên hướng dẫn hoặc thử dùng điện thoại công cộng. Do vậy, giờ thằng bé dễ dàng tìm đường quanh khu vực trường đại học và xa hơn thế.
3. Tổ chức và quản lý thời gian
Trẻ Nhật Bản theo dõi quá trình học tập của bản thân bằng cách chép lại danh sách bài tập về nhà trên bảng vào vở, ghi nhớ những việc ưu tiên trong đầu.
Học sinh cũng cần lưu ý những vật dụng cần mang đến trường. Rất nhiều đồ dùng học tập được đặt trên bàn ở nhà, bên cạnh sách giáo khoa và đồng phục thể dục. Mỗi tối, con trai tôi sẽ chọn những món đồ từ đây và cho vào cặp sách, chuẩn bị cho ngày hôm sau. Nếu quên thứ gì đó, giáo viên sẽ yêu cầu nó suy ngẫm về việc sự bất cẩn của cá nhân có thể gây bất tiện cho người khác. Kỹ năng này giúp trẻ lên kế hoạch tốt hơn trong tương lai.
4. Xử lý sự cố
Các trường học Nhật Bản thiết kế giai đoạn "nghiên cứu tích hợp" nhằm cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề của học sinh. Trường của con trai tôi tổ chức lớp trồng củ cải, cây bìm bìm hay cấy lúa. Học sinh phải ghé cửa hàng ở địa phương và tính toán ngân sách.
Lên lớp 6, các em được chọn một dự án riêng kéo dài cả năm. Con tôi nghiên cứu về Thế chiến thứ 2 và tôi phải đưa nó đến một khu căn cứ quân sự cũ để quan sát thực địa.
Vào đại học, những đứa trẻ được làm quen sớm với kỹ năng này sẽ tìm ra các giải pháp sáng tạo khi gặp khó khăn.
5. Dọn dẹp
Học sinh Nhật Bản tự dọn lớp học. Một trong những vật dụng đầu tiên tôi chuẩn bị cho con khi đi học là giẻ lau, tấm giẻ nhỏ có mũi khâu chạy theo đường chữ X để tạo độ bền, treo cạnh bàn học ở lớp để làm vệ sinh hàng ngày.
Khi quay lại trường sau kỳ nghỉ, trẻ mang theo găng tay để nhổ cỏ, mang sẵn khăn để lau mồ hôi từ trán. Do đó, giữ phòng ký túc xá gọn gàng không phải nhiệm vụ khó khăn với con trai tôi.
6. Ăn uống
Mọi đứa trẻ ở trường học Nhật Bản đều phải ăn hết những thứ được phục vụ trong bữa trưa, trừ khi bị dị ứng. Để thừa thức ăn bị xem là lãng phí và thiếu tôn trọng người nấu.
Con tôi học được cách nấu ăn tại trường, thái và hầm củ cải do mình tự trồng, thực hành gọt táo sao cho lớp vỏ thành một dải dài, không bị đứt đoạn. Năm lớp 6, nó có thể nấu một bữa ăn đủ món khi mặc chiếc tạp dề tự may ở lớp.
Kỹ năng này rất quan trọng khi vào đại học.
7. Xử lý xung đột
Khi bắt đầu vào lớp 1, con trai tôi từng chạy từ nơi này sang nơi khác, tìm chỗ trốn một nam sinh to xác hay bắt nạt bạn bè. Thằng bé cũng ẩu đả với một bạn nam khác, lăn lộn trên sàn lớp học.
Giáo viên không can thiệp trừ khi quan sát thấy sắp xảy ra chấn thương về thể chất hoặc tâm lý. Triết lý của trường học là để trẻ tự giải quyết các vấn đề của bản thân. Nhờ điều này, chúng có thể xử lý tranh chấp với bạn cùng phòng ở ký túc xá khi vào đại học.
8. Tính nhẫn nại
Ngày nay, rất ít đại học kiểm tra kỹ năng bơi lội của sinh viên. Nhưng nếu con tôi vào một trường yêu cầu kỹ năng này, nó đã được chuẩn bị kỹ.
Trường tiểu học của thằng bé ở Tokyo yêu cầu học sinh hoàn thành chặng bơi 1-2 km trước khi tốt nghiệp. Đó là kỳ tích đối với những đứa trẻ thành thị, bởi việc bơi ếch trong dòng nước có thể chứa nhiều sứa không hề đơn giản. Trẻ được rèn luyện tính kiên trì thông qua những thử thách như vậy.
9. Đứng lên từ thất bại
Không có điều nào ở trên dễ dàng đối với con trai tôi, trừ việc ăn thực phẩm đa dạng. Nó từng chịu nhiều nỗi thất vọng khi đến trường. Lúc mới đi học, nó bị chế nhạo vì là người nước ngoài (thằng bé được nhận nuôi từ Kazakhstan). Điểm kém bị dán lên tường, trong khi không có mảnh giấy nào khen ngợi nỗ lực.
Thằng bé học được rằng lựa chọn duy nhất là sống với những thiếu sót của mình hoặc nhắm đến mục tiêu cao hơn. Nó chấp nhận thực tế và có khả năng đứng lên từ những thất bại.
Khi đến Mỹ, bước vào môi trường đa dạng hơn với cộng đồng sinh viên đến từ khắp nơi trên thế giới, con trai tôi phải đối mặt với nhiều thử thách khó lường. Tuy nhiên, nhờ vào những kỹ năng đã học ở trường tiểu học Nhật Bản, nó sẵn sàng đón nhận mọi thứ.
Tác giả: Thùy Linh